GDVN-Phó Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cho rằng ngành công nghiệp bán dẫn cần có sự đầu tư lớn về nguồn lực con người lẫn cơ sở vật chất.
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long vừa ký Quyết định số 1017/QĐ-TTg ngày 21/9/2024 phê duyệt Chương trình “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050”.
Mục tiêu chung là đến năm 2030, Việt Nam đào tạo, phát triển đội ngũ nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn có chất lượng, tập trung vào công đoạn thiết kế vi mạch bán dẫn, đóng gói và kiểm thử vi mạch bán dẫn; từng bước nắm bắt công nghệ trong công đoạn sản xuất bán dẫn.
Trong đó, đào tạo được ít nhất 50.000 nhân lực có trình độ từ đại học trở lên phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn trong tất cả các công đoạn của chuỗi giá trị trong ngành công nghiệp bán dẫn.
Theo Quyết định này, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông (PTIT) là 1 trong 18 cơ sở giáo dục đại học công lập có thể sẽ được ưu tiên xem xét đầu tư phòng thí nghiệm bán dẫn.
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Trung Kiên – Phó Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã có những chia sẻ liên quan đến công tác đào tạo và nghiên cứu ngành công nghiệp bán dẫn tại Học viện.
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn
Đề cập tới kế hoạch để chuẩn bị cho việc tham gia đào tạo, phục vụ chương trình “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050”, Tiến sĩ Nguyễn Trung Kiên đánh giá: “Ngành công nghiệp bán dẫn là một ngành học khó, đòi hỏi tính chuyên sâu, kiên trì và đầu tư rất lớn. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo phải đáp ứng đủ trang thiết bị, các phòng nghiên cứu, phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu.
Việc các phòng thí nghiệm bán dẫn sẽ được xem xét đầu tư tại các trường đại học đóng vai trò rất quan trọng trong công tác nghiên cứu – đào tạo. Điều này giúp việc thực hành chuyên sâu của sinh viên ngành vi mạch, bán dẫn không chỉ bám sát lý thuyết mà còn bám sát với thực tiễn phát triển công nghệ đồng thời khuyến khích sinh viên thử nghiệm các ý tưởng mới, giúp nâng cao năng lực nghiên cứu, khả năng sáng tạo của sinh viên”.
Tiến sĩ Nguyễn Trung Kiên chia sẻ thêm: “Học viện đã có hơn 27 năm đào tạo các ngành công nghệ, kỹ thuật, trong đó 17 năm đào tạo ngành Công nghệ Kỹ thuật Điện – Điện tử (từ năm 2007). Từ năm 2020, Học viện đào tạo ngành Kỹ thuật Điều khiển và Tự động hóa.
Vì vậy, khi được giao trọng trách là một trong các trường đại học công lập đào tạo nguồn nhân lực thiết kế chíp bán dẫn, Học viện đã triển khai ngay nhiều hoạt động để chuẩn bị cho nguồn giảng viên trong lĩnh vực này.
Cụ thể, Học viện đã tuyển dụng mới các giảng viên là tiến sĩ, thạc sĩ có chuyên môn, nghiên cứu chuyên sâu về vi mạch, bán dẫn; đồng thời, có kế hoạch gửi giảng viên đi đào tạo ngắn hạn và dài hạn tại các nước phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản,… – những nơi có lợi thế lớn về ngành công nghiệp bán dẫn… Đây cũng chính là giảng viên, nghiên cứu viên của Học viện trong các ngành Công nghệ Kỹ thuật Điện – Điện tử, Kỹ thuật Điều khiển – Tự động hóa, Kỹ thuật Điện tử Viễn thông.
Với lợi thế có 3 văn phòng hợp tác nghiên cứu đào tạo tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cũng đã thu hút giảng viên của các trường đại học như Đại học Gunma (Nhật Bản), Đại học KAIST (Hàn Quốc),… để tham gia giảng dạy các học phần chuyên sâu”.
Để các chương trình đào tạo bám sát thực tiễn phát triển công nghệ và thực tiễn môi trường sản xuất kinh doanh, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã khai thác các quan hệ hợp tác quốc tế, triển khai các khóa học đào tạo có cung cấp chứng chỉ về vi mạch, bán dẫn từ các đối tác nước ngoài.
Đối với ngành vi mạch bán dẫn, Học viện đã có những bước đi cụ thể để khai thác lợi thế của doanh nghiệp đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vi mạch bán dẫn. Tháng 10/2023, Học viện ký kết “liên minh” 5 trường đại học đào tạo công nghiệp chíp bán dẫn.
Đến tháng 11/2023, Học viện đã ký kết Biên bản hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu và phát triển kỹ năng trên toàn cầu trong các ngành kỹ thuật máy tính và tin học (CEI) cho công nghệ chíp, đặc biệt như khoa học máy tính, mạch và hệ thống điện tử, hệ thống nhúng, chất bán dẫn, thiết kế vi mạch,… và rộng hơn là khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM).
“Tất cả những sự kiện trên là đều góp phần vào thực hiện Chương trình “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050” của Chính phủ” – vị Phó Giám đốc chia sẻ.
Cần có chính sách thu hút nguồn nhân lực, thu hút đội ngũ chuyên gia nước ngoài
Trong nhóm các nhiệm vụ, giải pháp về tổ chức đào tạo của Quyết định số 1017/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050” có nêu rõ: “Ưu tiên học bổng cho người học theo học các chương trình đào tạo tài năng, cho người học chương trình đào tạo về công nghiệp bán dẫn theo quy định của cơ sở giáo dục đại học”.
Bàn về nội dung này, Tiến sĩ Nguyễn Trung Kiên cũng chỉ ra, đây là một giải pháp đúng đắn để tạo tạo động lực cho người học, thu hút nhiều nguồn nhân lực trẻ tài năng.
“Việc Nhà nước đầu tư phòng thí nghiệm bán dẫn, nhằm phục vụ cho công tác đào tạo và nghiên cứu cho 18 cơ sở giáo dục đại học đào tạo về vi mạch bán dẫn thể hiện sự quan tâm của Chính phủ trong lĩnh vực “mũi nhọn” này. Song, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông nhận thấy rằng, ngoài việc đầu tư phòng thí nghiệm, yếu tố con người là đặc biệt quan trọng. Do đó, việc chú tâm vào đào tạo, hỗ trợ người học cũng là một nội dung cần được chú tâm.
Mục tiêu của Học viện khi đào tạo nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn là đào tạo các kỹ sư có trình độ và năng lực, có tính kỷ luật để làm việc trong các doanh nghiệp công nghệ cao, góp phần cùng các trường đại học khác giải quyết tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ cao ngành bán dẫn, đóng góp vào mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư mà Chính phủ đã đề ra.
Trên tinh thần đó, hiện tại, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông hỗ trợ học bổng tương đương 100% học phí cho 25 sinh viên tham gia khóa đào tạo chứng chỉ “Thiết kế và kiểm thử vi mạch bán dẫn chuyên sâu”. Khóa đào tạo diễn ra trong 6 tháng, đã có thông báo tuyển sinh, sẽ thành lập lớp và triển khai đào tạo vào cuối tháng 10/2024.
Học viện đang xây dựng chính sách đặc biệt bên cạnh các học bổng ưu đãi thông thường. Bên cạnh đó, các sinh viên ngành vi mạch bán dẫn còn được tham gia ít nhất từ 1-2 học kỳ doanh nghiệp tại các doanh nghiệp lớn trong ngoài nước. Ít nhất 50% có cơ hội được chuyển tiếp và học bổng tại các trường đại học quốc tế. Học viện cam kết, sinh viên ngành vi mạch bán dẫn sẽ có lương thực tập ngay từ năm thứ 2” – thầy Kiên thông tin thêm.
Được biết, trong tháng 9/2024, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã ra mắt chứng chỉ “Thiết kế và kiểm thử vi mạch bán dẫn chuyên sâu” dành cho các sinh viên năm thứ tư đến sau khi tốt nghiệp của các ngành kỹ thuật, cùng khóa đào tạo STEM – Nhập môn vi mạch bán dẫn dành cho học sinh phổ thông.
Vị Phó Giám đốc cũng đánh giá, đây là một trong những chương trình tập trung vào trải nghiệm thực tế, giúp sinh viên thực hành bài bản về cách thiết kế – kiểm thử vi mạch và ứng dụng trong ngành công nghệ bán dẫn một cách hiệu quả.
“Sở hữu chứng chỉ Thiết kế và Kiểm thử vi mạch bán dẫn chuyên sâu, sẽ mở ra nhiều cơ hội nghề nghiệp cho sinh viên; đồng thời, giúp các doanh nghiệp công nghệ cao có được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.
Do đó, các sinh viên ngành công nghiệp bán dẫn nên tìm cho mình những cơ hội mới, để học hỏi thêm những chứng chỉ có giá trị cho ngành nghề của bản thân sau này.
Tuy nhiên, các cơ sở giáo dục đại học không chỉ tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực của đất nước, mà cần có chính sách chung thu hút các chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy và làm việc tại Việt Nam, giúp chia sẻ kiến thức và công nghệ mới nhất trong ngành vi mạch bán dẫn” – Tiến sĩ Nguyễn Trung Kiên phân tích.
Do đó, Phó Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đề xuất, Nhà nước tạo điều kiện ưu đãi về visa, thuế và nơi ở để thu hút chuyên gia nước ngoài, nhằm giúp ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam tiếp cận thêm những nguồn kiến thức mới trên thế giới.